Pháp luật là công cụ, cơ sở để xây dựng, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi công dân. Do vậy, phán quyết của Tòa án phải đảm bảo công bằng để người dân có niềm tin vào việc thực thi pháp luật. Để đảm bảo 2 cấp xét xử của Tòa án được kiểm soát và hạn chế đến mức thấp nhất những thiếu sót trong quá trình tố tụng hình sự. Việc kháng nghị ở giai đoạn giám đốc thẩm vụ án hình sự, khi phát hiện có sai phạm trong bản án hình sự đã có hiệu lực pháp luật là thật sự cần thiết. Vậy ai có quyền kháng nghị? Bản án bị kháng nghị trong thời hạn nào? Hãy cùng Luật sư Tranh Tụng Thành phố Hồ Chí Minh tìm hiểu vấn đề này nhé.
– Căn cứ pháp lý:
Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
– Nội dung:
Khái niệm giám đốc thẩm vụ án hình sự
Theo quy định Điều 370 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, giám đốc thẩm là xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án.
Căn cứ kháng nghị: Căn cứ theo điều 371 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định về căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm như sau:
“Bản án, quyết định của Tòa án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm khi có một trong các căn cứ:
1. Kết luận trong bản án, quyết định của Tòa án không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án;
2. Có vi phạm nghiêm trọng trong thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến sai lầm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án;
3. Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật.”
Người có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
Những người sau đây có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm (Điều 373 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015):
– Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp cao; bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của toà án khác khi xét thấy cần thiết, trừ quyết định của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
– Chánh án Toà án quân sự trung ương, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của toà án quân sự cấp quân khu, toà án quân sự khu vực.
– Chánh án Toà án nhân dân cấp cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của tòa án nhân dân cấp tỉnh, toà án nhân dân cấp huyện trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ.
Những người đã kháng nghị bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật có quyền tạm đình chỉ việc thi hành bản án hoặc quyết định bị kháng nghị giám đốc thẩm. Như vậy, đối với bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật đang được thi hành, nếu thấy trong thời hạn chờ xét xử giám đốc thẩm, việc tiếp tục thi hành bản án hoặc quyết định đó có thể gây thiệt hại cho người phải thi hành án thì người đã kháng nghị có quyền quyết định tạm đình chỉ việc thi hành bản án, quyết định đó. Người đã kháng nghị có quyền quyết định tạm đình chỉ thi hành án ngay trong bản kháng nghị hoặc sau khi đã kháng nghị, không được tạm đình chỉ thi hành án trước khi kháng nghị. Quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định bị kháng nghị giám đốc thẩm phải gửi cho toà án, viện kiểm sát nơi đã xét xử sơ thẩm và cơ quan thi hành án có thẩm quyền (Điều 377 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015).
Thời gian kháng nghị giám đốc thẩm
Để đảm bảo tính ổn định của các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, Điều 379 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Việc kháng nghị theo hướng không có lợi cho người bị kết án chỉ được tiến hành trong thời hạn một năm kể từ ngày bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật”. Quy định này thường được áp dụng đối với các kháng nghị như kháng nghị yêu cầu áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nặng hơn, tăng nặng hình phạt đối với người bị kết án, kháng nghị để kết tội người đã được tòa án tuyên bố là không có tội.
Ngược lại, cũng theo Điều luật trên thì “Việc kháng nghị theo hướng có lợi cho người bị kết án có thể được tiến hành bất cứ lúc nào, kể cả trường hợp người bị kết án đã chết mà cần minh oan cho họ”. Quy định này thường được áp dụng đối với các kháng nghị như kháng nghị đề nghị huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ án vì người bị kết án không phạm tội, kháng nghị yêu cầu huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại hoặc xét xử lại theo hướng giảm hình phạt, miễn hình phạt cho người bị kết án…
Đối với vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, nếu có vi phạm mà phải kháng nghị giám đốc thẩm nhung chỉ liên quan đến nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án thì sẽ kháng nghị theo những quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
Nếu không có căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm thì người có quyền kháng nghị phải trả lời bằng văn bản cho cơ quan, tổ chức, cá nhân đã kiến nghị biết rõ lý do của việc không kháng nghị.
Sự cần thiết tăng cường kháng nghị sửa án đã có hiệu lực ở giai đoạn giám đốc thẩm vụ án hình sự
Thứ nhất, giám đốc thẩm đảm bảo cho vụ việc được giải quyết theo đúng pháp luật.
Giám đốc thẩm là một trong những hình thức đặc biệt để Tòa án cấp trên kiểm tra tính hợp pháp của việc thực thi pháp luật của Tòa án cấp dưới.
Quá trình tố tụng dân sự được diễn ra trong khoảng thời gian tương đối dài, với nhiều tình tiết vụ án phức tạp, qua nhiều giai đoạn. Chính vì vậy, việc đảm bảo cho vụ án được giải quyết đúng pháp luật được đặt ra vô cùng cấp thiết.
Qua nhiều cấp xét xử, việc thực thi pháp luật, bảo vệ công lý được đảm bảo hơn. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại nhiều bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới có những sai lầm, vi phạm nghiêm trọng về nội dung, về áp dụng pháp luật hay về thủ tục tố tụng.
Chính vì vậy, Giám đốc thẩm được quy định nhằm phát hiện những sai lầm, vi phạm nghiêm trọng đó để sửa sai và bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Mặt khác, thông qua công tác giám đốc thẩm, Tòa án phát hiện được những bất hợp lý còn tồn tại của pháp luật nội dung và pháp luật tố tụng dân sự, từ đó kiến nghị để sửa đổi, bổ sung cho hợp lý.
Thứ hai, thông qua hoạt động giám đốc thẩm, Tòa án cấp trên có thể tổng kết, rút kinh nghiệm, hướng dẫn xét xử cho Tòa án cấp dưới.
Các quyết định giám đốc thẩm là nguồn tư liệu thực tế để Tòa án nhân dân tối cao làm cơ sở đưa ra những kết luận, tổng kết kinh nghiệm xét xử, từ đó đưa ra những phương án, kiến nghị nhằm hạn chế những sai sót, nâng cao chất lượng của Tòa án cấp dưới.
Các quyết định giám đốc thẩm được công bố công khai cũng là một nguồn tư liệu cho các Thẩm phán tham khảo và rút kinh nghiệm trong quá trình xét xử, tránh lặp lại những sai lầm tương tự.
Thứ ba, giám đốc thẩm có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân luôn là mục tiêu hàng đầu được Nhà nước hướng đến. Thông qua thủ tục này, Tòa án bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp ấy một cách toàn diện hơn. Khi phát hiện bản án, quyết định có sai lầm, vi phạm nghiêm trọng, xâm phạm đến các lợi ích hợp pháp của công dân thì Tòa án có quyền giám đốc thẩm hủy những bản án, quyết định sai, đồng thời tạo cơ sở pháp lý để được phục hồi, xét xử lại.
Qua đó, có thể thấy việc tăng cường kháng nghị sửa án đã có hiệu lực ở giai đoạn giám đốc thẩm vụ án hình sự là một điều vô cần cần thiết, đây là cơ sở để tăng cường việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho công dân một cách hiệu quả.
Trên đây là những nội dung chia sẻ của Luật sư Tranh Tụng Thành phố Hồ Chí Minh về quy định của pháp luật về sự cần thiết tăng cường kháng nghị sửa án đã có hiệu lực ở giai đoạn giám đốc thẩm vụ án hình sự, vui lòng liên hệ:
Luật sư Tranh Tụng Thành phố Hồ Chí Minh
VP1: 37/12 Hẻm 602 Điện Biên Phủ, P.22, quận Bình Thạnh, Tp. Hồ Chí Minh (Bên cạnh UBND phường 22).
VP2: 207B Nguyễn Phúc Chu, P.15, quận Tân Bình, Tp. Hồ Chí Minh.
Email: info@htlegalvn.com Hotline: 09 6161 4040 – 09 4517 4040