RANH GIỚI GIỮA VAY MƯỢN TIỀN VÀ LỪA ĐẢO/LẠM DỤNG TÍN NHIỆM “CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN” (LUẬT SƯ UY TÍN TẠI QUẬN BÌNH THẠNH, TÂN BÌNH TP HỒ CHÍ MINH)

363 lượt xem
5
(4)

Hiện nay, việc vay mượn tiền cá nhân với nhau rất nhiều và xẩy ra nhiều tình huống sau khi vay được tiền thì trốn tránh không trả nợ. Có trường hợp người cho vay đến trình báo Cơ quan Công an và tố giác người đi vay Lừa đảo/Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nhưng không đủ cơ sở giải quyết.

Bởi lẽ, thực tế Người đi vay có nhiều loại hành vi: Có người nói dối để giãn nợ, có người nói dối để vay được tiền, tài sản; có người vay xong bỏ trốn, lẫn tránh trả nợ, có người thì thách thức không chịu trả nợ. Vậy trường hợp nào thì người vay tiền được coi là phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt hoặc Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản còn trường hợp nào chỉ coi là giao dịch dân sự.

Sau đây Công ty Luật HT Legal VN sẽ đưa ra phân tích cho bạn đọc có cái nhìn đúng đắn về hành vi của người đi vay để có biện pháp đòi nợ phù hợp quy định pháp luật.

Cơ sở pháp lý: Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017

1. Khi nào vay tiền không trả thì phạm tội là Lừa đảo chiếm tài sản hoặc Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản?

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung 2017) và Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung 2017) đều có hành vi vay mượn tiền, đều dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản nên

Do vậy, quá trình điều tra, truy tố, xét xử các vụ án có tính chất chiếm đoạt tài sản, cơ quan tiến hành tố tụng thường nhầm lẫn trong việc định tội danh do dấu hiệu pháp lý đặc trưng của những tội phạm này có điểm tương đồng.

Sự khác biệt giữa hai loại tội phạm này chính là thủ đoạn gian dối có trước hay sau khi người phạm tội đã nhận được tài sản của người khác. Nếu hành vi gian dối xảy ra trước khi vay, nghĩ ra thủ đoạn gian dối để người cho vay cho mình mượn tiền nhằm chiếm đoạt tài sản của người cho vay thì phải coi là “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Ví dụ: A nói dối với B rằng A cần tiền để chữa bệnh cho Cha mẹ đang cấp cứu tại Bệnh viện, vì tin tưởng A và nghĩ rằng cứu người là cấp bách nên B đã rút tiền tiết kiệm cho A vay 300 triệu đồng. Tuy nhiên, sau khi vay được tiền A lại sử dụng tiền để trả nợ và cá độ bóng đá. Trong trường hợp này, A đã phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Nếu hành vi gian dối xảy ra sau khi người phạm tội đã có tài sản một cách hợp pháp nhằm chiếm đoạt tài sản thì chỉ coi là Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

Ví dụ: A vay B 300 triệu đồng, nhưng đến hạn không có tiền trả nên A mới nói với B rằng A sẽ về quê bán đất trả để lấy tiền trả cho B, nhưng thực tế A đã mang tiền bỏ trốn. Vậy A đã phạm tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 1 Điều 175 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung 2017, thì hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là việc “người vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó”. Vậy thế nào là bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản? Đây là vấn đề thực tiễn đặt ra, các cơ quan tiến hành tố tụng cũng rất lúng túng, nhưng đến nay vẫn chưa có hướng dẫn.

Đa số các chuyên gia cho rằng, “bỏ trốn” quy định tại Điều 175 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung 2017 không nhất thiết phải là trốn khỏi địa phương, cũng không cần Cơ quan điều tra phải truy nã, mà chỉ trốn tránh chủ nợ như: Bỏ ra khỏi nhà, không nghe điện thoại, không trả lời tin nhắn, thay số điện thoại, thay đổi chỗ ở mà không thông báo cho chủ nợ biết… miễn sao tìm cách tránh mặt chủ nợ là được xem “bỏ trốn”.

Có ý kiến cho rằng chỉ cần xác định sử dụng tài sản đó vào mục đích khác nhưng bản thân vẫn không có chiếm đoạt, chỉ muốn nói dối để vay nợ thôi thì có xem là phạm tội không như: Khi vay nói là để đầu tư nuôi tôm, nhưng lại đem trả nợ ngân hàng để không bị chịu lãi quá hạn hoặc đem tiền vay được sử dụng vào mục đích không đúng như lời hứa với chủ nợ; vì người phạm tội không có ý định chiếm đoạt, mà muốn dùng số tiền vay được trả nợ hoặc đầu tư, sản xuất rồi sẽ trả người cho vay và chỉ có dùng số tiền vay được sử dụng vào mục đích phạm tội thì phải coi là bất hợp pháp như: Đánh bạc, buôn lậu, đưa hối lộ… dẫn đến không còn khả năng trả nợ mới phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Tuy nhiên, cách nghĩ này cũng là sai lầm, vì chỉ cần có dấu hiệu gian dối và người đi vay mất khả năng thanh toán khi đến hạn thì người đó đã phạm tội.

2. Trường hợp nào thì vay mượn tiền chỉ là quan hệ dân sự ?

Trong trường hợp người vay tiền nói rõ mục đích vay và họ vay được tiền. Nhưng đến hạn đã mất khả năng thanh toán, nhưng khi người cho vay đến đòi nợ thì người vay tiền vẫn có mặt tại nơi cư trú, không có biểu hiện trốn tránh nhưng không trả được tiền thì đây được xem là quan hệ dân sự. Người cho vay muốn đòi được tiền buộc phải kiện ra Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu người vay trả lại tiền.

Ví dụ: A vay B số tiền 2 tỷ đồng để đầu tư bất động sản. Do bất động sản đứng, A không có tiền để trả B, do tiền đã đầu tư bất động sản. B nhiều lần đến nhà đòi A, A vẫn có mặt gặp B nói rằng không có tiền, B yêu cầu A bán đất trả nợ nhưng A không đồng ý thì đây vẫn là quan hệ dân sự.

Cho vay mượn chỉ bằng... niềm tin - Báo Người lao động

Tại Điều 175 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung 2017 còn quy định: “Đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả”. Tuy nhiên, từ khi BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung 2017 có hiệu lực pháp luật đến nay chưa thấy trường hợp nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự về dấu hiệu trên bởi lẽ chứng minh người đi vay có tài sản, có đủ điều kiện trả nợ và cố tình không trả rất khó. Ngoại trừ, dấu hiệu này cực kỳ rõ ràng mới được xử lý hình sự.

Khi xác định tình tiết phạm tội này cần chú ý: Nếu các khoản vay, mượn trước 0 giờ 00 phút ngày 01/01/2023 mà sau 0 giờ 00 phút ngày 01/01/2023 mới hết hạn, mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả, thì vẫn là quan hệ dân sự.

Trên đây là một số ý kiến của Công ty Luật TNHH HT Legal VN liên quan ranh giới giữa vay mượn tiền và lừa đảo/lạm dụng tín nhiệm “Chiếm đoạt tài sản”. Để được tư vấn rõ hơn về vấn đề này và các vấn đề pháp lý có liên quan, vui lòng liên hệ

CÔNG TY LUẬT TNHH HT LEGAL VN

VP1: 37/12 Hẻm 602 Điện Biên Phủ, P.22, quận Bình Thạnh, Tp. Hồ Chí Minh (Bên cạnh UBND phường 22)

VP2: 207B Nguyễn Phúc Chu, P.15, quận Tân Bình, Tp. Hồ Chí Minh

Email: info@htlegalvn.com Hotline: 09 6161 4040 – 09 4517 4040

Bài viết này có hữu ích với bạn?

Điểm trung bình 5 / 5. Lượt đánh giá: 4

Trở thành người đầu tiên đánh giá bài viết này.

error: Content is protected !!

0922 22 40 40

zalo-icon